Sửa đổi Luật Dược: Khắc phục những bát cập, hạn chế về đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc
Tại phiên họp thẩm tra sơ bộ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược, đại diện cơ quan soạn thảo cho biết, việc sửa đổi Luật căn cứ vào nhiều cơ sở thực tiễn, đặc biệt là việc sửa đổi này sẽ khắc phục những bất cập, hạn chế liên quan về đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc, đảm bảo phù hợp chủ trương cải cách hành chính
Trình bày Tờ trình tại phiên họp
thẩm tra sơ bộ, đại diện cơ quan soạn thảo cho biết, Luật Dược được Quốc hội
khóa XIII thông qua ngày 06/4/2016, thay thế cho Luật Dược năm 2005, đánh dấu
một bước phát triển quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về dược
tại Việt Nam, cơ bản phù hợp với sự phát triển của ngành dược trong xu thế hội
nhập quốc tế. Theo đó, Luật Dược 2016 ra đời đã điều chỉnh toàn diện các vấn đề
liên quan đến chính sách của Nhà nước về dược và phát triển công nghiệp dược;
hành nghề dược; kinh doanh dược; đăng ký, lưu hành, thu hồi thuốc và nguyên
liệu làm thuốc; dược liệu và thuốc cổ truyền; đơn thuốc và sử dụng thuốc; thông
tin thuốc, cảnh giác dược và quảng cáo thuốc; dược lâm sàng; quản lý thuốc
trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; thử thuốc trên lâm sàng và thử tương đương
sinh học của thuốc; quản lý chất lượng thuốc, nguyên liệu làm thuốc và quản lý
giá thuốc.
Luật Dược đã góp phần tạo lập môi trường đầu tư
kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp,
người dân cơ bản đã được bảo đảm cung ứng đủ thuốc có chất lượng với giá cả hợp
lý, ngành công nghiệp dược trong nước đạt mức độ phát triển ở trình độ cao, đạt
cấp độ 3,5 theo thang phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có giá trị thị
trường trong tốp 3 ASEAN, góp phần bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời thuốc có
chất lượng, an toàn, hiệu quả và giá hợp lý; huy động tối đa các nguồn lực
trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên trình bày Tờ trình
Sau hơn 07 năm triển khai thi hành
Luật, ngành dược đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, các quy định của pháp
luật về dược đã tạo cơ sở pháp lý sự phát triển theo hướng công khai, minh
bạch, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Thông qua các cơ chế,
chính sách, văn bản pháp luật về dược đã được ban hành, ngành dược Việt Nam đã
phát triển mạnh mẽ góp phần vào công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho người
dân.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp
bách từ thực tiễn, hệ thống pháp luật về dược đã bộc lộ một số hạn chế, bất
cập, cụ thể: Một số quy định liên quan về đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu
làm thuốc đã bộc lộ bất cập và chưa phù hợp chủ trương cải cách hành chính
Về hồ sơ, trình tự, thủ tục gia hạn hiệu lực
giấy đăng ký lưu hành (Giấy ĐKLH) đối với thuốc, nguyên liệu làm thuốc: Khoản 1
Điều 56 Luật Dược quy định tất cả các thuốc sau khi hết hạn hiệu lực Giấy ĐKLH
thì đều phải nộp lại hồ sơ gia hạn và các hồ sơ này đều phải trải qua quá trình
thẩm định, xét duyệt của Hội đồng tư vấn cấp Giấy đăng ký lưu hành. Quy định
này của Luật Dược đã góp phần giúp cho việc quản lý thuốc có chất lượng, an
toàn và hiệu quả.
Tuy nhiên, chỉ phù hợp với các thuốc trong quá
trình lưu hành có vấn đề về chất lượng hoặc an toàn cần phải đánh giá lại trước
khi gia hạn hiệu lực Giấy ĐKLH. Đối với thuốc trong thời gian lưu hành trên thị
trường không nhận được những phản ánh liên quan đến chất lượng, an toàn cho
người sử dụng hoặc không có khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới thì việc thẩm
định, xét duyệt lại hồ sơ gia hạn của Hội đồng tư vấn là không cần thiết vì nếu
phải chờ thẩm định, phê duyệt để tiếp tục được gia hạn hiệu lực Giấy ĐKLH có
thể làm gián đoạn việc lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc trên thị trường
dẫn đến đứt gãy nguồn cung tạm thời đồng thời gây quá tải cho Hội đồng tư vấn,
gây ách tắc, chậm cấp phép và tồn đọng hồ sơ.
Thường trực Ủy ban Xã hội thẩm tra sơ bộ dự án Luật Dược (sửa đổi)
Khoản 3 Điều 56 Luật Dược quy định
hồ sơ gia hạn hiệu lực Giấy ĐKLH phải nộp 06 loại tài liệu, chủ yếu là các tài
liệu về hành chính, Luật Dược quy định nộp một số tài liệu này trong bối cảnh
việc cấp phép lưu hành lần đầu trước đây chưa áp dụng hệ thống cấp giấy phép
lưu hành thuốc trực tuyến (online). Hiện nay, Bộ Y tế đã triển khai hệ thống
cấp phép trực tuyến và trong thời gian tới sẽ liên thông cơ sở dữ liệu được
quốc gia thì hoàn toàn tra cứu lại được các tài liệu này nên không cần thiết
phải yêu cầu nộp lại. Việc phải nộp nhiều tài liệu trong hồ sơ đã dẫn đến lãng
phí thời gian, nguồn lực cho doanh nghiệp khi chuẩn bị hồ sơ cũng như tạo áp
lực cho cơ quan quản lý trong việc phải thẩm định, xét duyệt hồ sơ.
Về trình tự, thủ tục cho phép thay đổi, bổ sung
Giấy ĐKLH thuốc, nguyên liệu làm thuốc, khoản 1 Điều 56 Luật Dược quy định việc
thay đổi, bổ sung Giấy ĐKLH thuốc, nguyên liệu làm thuốc phải thông qua thẩm
định hồ sơ, tư vấn của Hội đồng tư vấn cấp Giấy ĐKLH thuốc, nguyên liệu làm
thuốc. Quy định này của Luật Dược cũng giúp cho việc quản lý thuốc có chất
lượng, an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, quy định về
trình tự, thủ tục này là không cần thiết đối với các trường hợp chỉ thay đổi về
hành chính đơn giản (thay đổi địa chỉ thư tín, thay đổi cách viết tên, địa chỉ
cơ sở sản xuất, đăng ký thuốc, bổ sung mã QR, barcode...) không liên quan đến
chuyên môn kỹ thuật, an toàn, hiệu quả của thuốc, gây lãng phí thời gian cho
doanh nghiệp đồng thời tạo áp lực về thời gian giải quyết thủ tục hành chính
cho cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, quy định này cũng chưa hội nhập với
các nước trên thế giới, trong khu vực (giao cho cơ sở tự công bố, chịu trách
nhiệm hoặc chỉ cần thông bảo cho cơ quan quản lý nhà nước để hậu kiểm...). Vì
vậy, cần thiết phải phân hóa cụ thể các trường hợp thay đổi, bổ sung để quy
định trình tự, thủ tục tương ứng nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và phù hợp
thông lệ quốc tế.
Các đại biểu nghiên cứu tài liệu tại phiên họp
Về thử thuốc trên lâm sàng đối với
thuốc khi đăng ký lưu hành đối với thuốc dược liệu có sự kết hợp mới của dược
liệu đã từng sử dụng làm thuốc tại Việt Nam, điểm b khoản 1 Điều 89 quy định
thuốc thuốc dược liệu có sự kết hợp mới của dược liệu đã từng sử dụng làm thuốc
tại Việt Nam và có chỉ định đối với các bệnh thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Y
tế ban hành phải thử lâm sàng đầy đủ các giai đoạn khi đăng ký lưu hành.
Quy định này có 02 cách hiểu khác nhau trong
việc xác định trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Y tế về ban hành danh mục thuốc cổ
truyền có sự kết hợp mới của dược liệu đã từng sử dụng làm thuốc tại Việt Nam
hay Danh mục các bệnh chỉ định, đã dẫn đến khó khăn trong quá trình hướng dẫn
triển khai thi hành Luật Dược, vì: Khoản 7 Điều 2 Luật Dược quy định thuốc dược
liệu là thuốc có thành phần từ dược liệu và có tác dụng dựa trên bằng chứng
khoa học. Theo đó, các thuốc dược liệu mới hoặc thuốc có sự kết hợp mới của
dược liệu đã được lưu hành, sử dụng muốn đăng ký chỉ định mới thì phải có đầy
đủ dữ liệu lâm sàng đáp ứng các quy định chung về thử nghiệm lâm sàng của WHO,
EMA, US-FDA...
Theo quy định của quốc tế, về nguyên tắc, các
yêu cầu khi đăng ký lưu hành đối với thuốc dược liệu là tương tự như thuốc hỏa
dược. Hiện nay, chưa có cơ quan quản lý nào ban hành danh mục chỉ định đối với
thuốc dược liệu để yêu cầu phải thử lâm sàng đầy đủ các giai đoạn. Vì vậy, quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 89 không phù hợp với quy định của Việt Nam và của
Quốc tế, cần thiết phải bãi bỏ.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Hoàng Mai đề nghị tiếp tục đánh giá tác động đối với những chính sách mới của Dự án Luật
Tại phiên họp thẩm tra sơ bộ, cơ
quan thẩm tra tán thành sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược
căn cứ vào cơ sở chính trị, pháp lý và cơ sở thực tiễn như Tờ trình của cơ quan
soạn thảo. Tuy nhiên cơ quan thẩm tra đề nghị tiếp tục đánh giá tác động đối
với những chính sách mới của Dự án Luật; đảm bảo việc đánh giá tác động này
phản ánh chi tiết, cụ thể sự ảnh hưởng của chính sách đối với từng vấn đề có
liên quan./.
Nguyễn Linh ( theo Bộ Y tế )