Nhiều đơn vị gửi ý kiến đóng góp hồ sơ xây dựng Luật An toàn thực phẩm sửa đổi
Xây dựng Luật an toàn thực phẩm sửa đổi để
giải quyết vướng những mắc trong thực tiễn
Trong đó, có 13 Bộ, cơ quan ngang Bộ
gồm Bộ Công an; Bộ Công Thương; Bộ Ngoại giao; Bộ Nội vụ; Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Thông tin
và Truyền thông; Bộ Tư pháp; Bộ Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch; Mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể; Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên
đoàn thương mại Việt Nam và Công nghiệp Việt Nam.
Về cơ bản các ý kiến đều đồng ý với hồ sơ và có thêm ý kiến góp ý, chỉnh
sửa, bổ sung 2 đơn vị là Bộ Thông tin và truyền thông, Bộ Văn hóa thể thao và
Du lịch.
Đối với các đơn vị của Bộ Y tế có 10 đơn vị gửi góp ý, trong đó
đồng ý với dự thảo và không có ý kiến bổ sung là 4 Vụ, Cục; Về cơ bản đồng ý với
dự thảo và có thêm ý kiến góp ý, chỉnh sửa, bổ sung là 6 Vụ, Cục.
Lãnh đạo Cục An toàn thực phẩm và các đơn vị chức năng kiểm
tra công tác vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đối với các doanh nghiệp có 16 đơn vị gửi góp ý gồm: Hiệp hội
Sữa, Hiệp hội Thực phẩm chức năng, Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng
cao, Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy
sản; Hội lương thực thực phẩm TP. HCM, Liên minh các doanh nghiệp rượu quốc tế,
Eurocham, Công ty cổ phần dược phẩm CPC1 Hà Nội, Hiệp hội ngành công nghiệp TP
Châu Á, Hiệp hội bia rượu nước giải khát, Amcham, Công ty Masan Việt Nam, Công
ty Acecook Việt Nam...
Còn lại là ý kiến đóng góp của người dân.
Trước đó, Cục An toàn thực phẩm cho biết, Bộ Y tế đang đề nghị xây dựng
Luật an toàn thực phẩm sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu mới đặt ra, giải quyết
vướng mắc trong thực tiễn, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an toàn thực phẩm.
Bộ Y tế cho biết, ngày 17/6/2010, Quốc hội Khóa XII kỳ họp thứ 7 đã thông
qua Luật an toàn thực phẩm số 55/2010/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2011.
Luật an toàn thực phẩm với nhiều quy định mới mang tính đột phá, là cơ sở
pháp lý quan trọng, nội dung các quy định đã bám sát các yêu cầu quản lý đối
với thực phẩm nước ta, tập trung vào các vấn đề chính trong công tác quản lý an
toàn thực phẩm.
Có thể thấy sau hơn 12 năm thi hành Luật an toàn thực phẩm và các Nghị
định quy định chi tiết, các quy định về an toàn thực phẩm trong hoạt động
thương mại hiện hành đã tạo hành lang pháp lý tích cực cho hoạt động kinh doanh
thực phẩm trong nước cũng như quốc tế.
4 nội dung về quản lý an toàn thực phẩm không còn phù hợp
Tuy nhiên đến nay, Luật an toàn thực phẩm năm 2010 đã có nội dung, quy
định không còn phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về
an toàn thực phẩm cũng như điều kiện kinh tế-xã hội.
Thứ nhất, một số quy định và cấp chứng nhận hợp quy về công bố hợp quy
đối với sản phẩm thực phẩm chưa phù hợp với thực tiễn (giai đoạn 2010-2017) vì
số lượng sản phẩm thực phẩm nhiều nhưng số lượng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
còn ít; điều kiện sản xuất, kinh doanh chưa sát đối với hộ sản xuất nhỏ lẻ (tuy
sản xuất nhỏ lẻ nhưng cung cấp một khối lượng thực phẩm rất lớn cho nhu cầu của
xã hội nếu không chú ý quản lý đối tượng này sẽ dẫn đến nguy cơ ngộ độc thực
phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm rất lớn).
Thứ hai, còn thiếu quy định về quản lý như: Quy định về chỉ tiêu an toàn
thực phẩm đối với thực phẩm có nguồn gốc thực vật còn thiếu, chưa đồng bộ để
phù hợp với tình hình thực tế hiện nay; quy định về phân cấp trong điều tra ngộ
độc thực phẩm; quy định về thu hồi Giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy/đăng ký
bản công bố sản phẩm chưa ban hành quy chuẩn kỹ thuật địa phương về chất lượng
nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt; thiếu văn bản quy định về đảm bảo
nguồn lực để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về an toàn thực phẩm; thiếu tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các sản phẩm truyền thống của địa phương như
tinh bột nghệ, dụng cụ ăn uống bằng tre và mo cau, men rượu...
Do lĩnh vực an toàn thực phẩm rộng, liên quan đến nhiều quy định của
nhiều văn bản pháp luật khác nhau nên một số quy định hướng dẫn Luật an toàn
thực phẩm còn chưa đồng bộ.
Ví dụ: Quy định việc quản lý về an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất,
kinh doanh thực phẩm không thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều
kiện an toàn thực phẩm của 03 ngành chưa có sự thống nhất (đối với 02 ngành
(Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương) thì có các văn bản hướng dẫn
quản lý bằng hình thức ký bản cam kết bảo đảm an toàn thực phẩm, riêng ngành Y
tế không thực hiện hình thức ký bản cam kết bảo đảm an toàn thực phẩm; chưa
thống nhất trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đối với loại
hình kinh doanh dịch vụ ăn uống (cụ thể là loại hình nhà hàng trong khách sạn,
bếp ăn tập thể không có đăng ký ngành nghề kinh doanh thực phẩm); chưa thống
nhất trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đối với loại hình
chợ...
Thứ ba, một số khái niệm còn thiếu như sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ
lẻ, thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn; chưa thống nhất giữa các luật như
khái niệm "sản xuất thực phẩm" và "kinh doanh thực phẩm"
chưa thống nhất giữa Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Luật an toàn thực phẩm; khái
niệm "cấm sử dụng", "danh mục được phép sử dụng",
"chưa được phép sử dụng", "chưa được phép lưu hành tại Việt
Nam"... chưa được thống nhất và giải thích rõ ràng trong các tiêu chuẩn và
quy chuẩn để thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện Luật an toàn thực
phẩm.
Thứ tư, một số quy định còn chưa đồng bộ, khó triển khai như tại điểm a,
khoản 1 Điều 36 Luật an toàn thực phẩm, quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp
Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm trong đó quy định hồ sơ
cấp có "Giấy xác nhận đã được tập huấn kiến thức về an toàn thực phẩm của
chủ cơ sở và của người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định
của Bộ trưởng Bộ quản lý ngành", khoản 1 Điều 10 Nghị định số
17/2020/NĐ-CP ngày 5/2/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên
quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ
Công Thương quy định "Người trực tiếp sản xuất phải được tập huấn kiến
thức an toàn thực phẩm và được chủ cơ sở xác nhận".
Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn Luật an toàn thực phẩm chưa quy định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm thuộc cơ quan nào thực hiện tập huấn kiến thức an toàn
thực phẩm. Việc giao cho các doanh nghiệp, cá nhân tự tổ chức tập huấn không
đảm bảo tính khách quan và tính hiệu quả trong thi hành pháp luật.
Điều 37 Luật An toàn thực phẩm năm 2010 quy định giấy chứng nhận cơ sở đủ
điều kiện an toàn thực phẩm có hiệu lực trong thời gian 03 năm; trước 06 tháng
tính đến ngày giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm hết hạn, tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải nộp hồ sơ xin cấp lại...; như
vậy, thời gian làm hồ sơ để cấp lại giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn
thực phẩm trước ngày hết hạn là quá dài, gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân
kinh doanh thực phẩm.
Bộ Y tế cho biết, để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoàn
thiện thể chế lĩnh vực quản lý an toàn thực phẩm, trước yêu cầu mới của thực
tiễn, hội nhập quốc tế, khắc phục những tồn tại, bất cập đặt ra trong quá trình
thi hành Luật an toàn thực phẩm, cần thiết phải xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật an toàn thực phẩm trên cơ sở phát huy ưu điểm và khắc phục
các hạn chế của Luật này.
NL ( theo báo SK&ĐS )