Thoái hóa khớp gối là một bệnh khớp mạn tính có biểu hiện khớp gối bị đau, sưng tấy, cứng khớp, biến dạng… Trường hợp nặng có thể không đi lại được.
Các phương pháp điều trị hiện tại không thể chữa khỏi hoàn toàn tình trạng thoái hóa khớp cũng như không thể phục hồi 100% sức khỏe cho các khớp bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, trọng tâm của các phương pháp điều trị này là làm chậm sự tiến triển của tình trạng này, đồng thời bảo vệ đầu gối khỏi bị tổn thương thêm.
Nói chung, thuốc được lựa chọn đầu tiên để điều trị thoái hóa khớp gối là sử dụng thuốc giảm đau, chống viêm đường uống, vật lý trị liệu, tập thể dục, giảm cân và các biện pháp khác.
Tiêm thuốc vào khớp được cho là có tác dụng làm giảm viêm trong khớp hoặc giảm mài mòn sụn ở một mức độ nhất định, nhưng hiệu quả vẫn sẽ giảm sau vài năm. Thay khớp gối toàn phần thường được sử dụng như một lựa chọn điều trị cuối cùng cho bệnh thoái hóa khớp gối để giảm đau, cải thiện chức năng.
2. Các thuốc có thể dùng để tiêm trị thoái hóa khớp gối
- Tiêm steroid: Bác sĩ sẽ tiêm một loại steroid có chứa chất gây tê cục bộ vào khớp gối. Steroid có thể nhanh chóng ức chế quá trình viêm của mô, giảm viêm cục bộ, giảm đau, tác dụng nhanh, trong vòng 24-48 giờ.
Nhóm được đề xuất bao gồm:
- Bệnh nhân bị đau nhức khớp gối.
- Bệnh nhân đã điều trị bằng thuốc nhưng chưa thấy cải thiện.
- Bệnh nhân không thể dùng thuốc chống viêm đường uống.
Tác dụng phụ bao gồm:
- Steroid có thể gây tổn thương mô quanh khớp gối.
- Da mỏng, có màu sắc bất thường tại chỗ tiêm.
- Tăng nguy cơ nhiễm trùng nên bác sĩ sẽ kiểm tra kỹ xem có nhiễm trùng bên trong, bên ngoài khớp gối hay không và tìm kiếm tiền sử dị ứng với steroid.
Hạn chế điều trị:
Tiêm steroid vào đầu gối thường có tác dụng tốt nhất trong vài lần tiêm đầu tiên, do đó không phù hợp để điều trị lâu dài và có thể cản trở quá trình sửa chữa tự nhiên của cơ thể. Nếu không có cải thiện sau một thời gian tiêm, nên thay đổi phương pháp điều trị.
- Tiêm axit hyaluronic: Bác sĩ sẽ tiêm trực tiếp dịch khớp nhân tạo hoặc chất bôi trơn gọi là axit hyaluronic vào khoang khớp gối để giảm ma sát trên bề mặt sụn. Tác dụng có thể kéo dài từ 3-6 tháng. Có thể thực hiện tiêm lặp lại khi cần thiết, theo khuyến cáo của bác sĩ. Tiêm dịch khớp nhân tạo giúp giảm đau, giảm viêm, cải thiện khả năng vận động, cải thiện chất lượng cuộc sống của người bị thoái hóa khớp gối.
Nhóm được đề xuất bao gồm:
- Bệnh nhân bị mòn đầu gối từ sớm đến trung bình.
- Bệnh nhân đã thử dùng thuốc giảm đau, chống viêm, vật lý trị liệu mà không cải thiện.
- Bệnh nhân có khớp gối chưa bị viêm rõ ràng đến mức phải tiêm steroid.
- Bệnh nhân không thể phẫu thuật thay khớp gối.
Tác dụng phụ:
Tác dụng phụ có thể xảy ra là sưng khớp gối, đau do viêm trong quá trình điều trị.
Hạn chế điều trị:
Tiêm dịch khớp nhân tạo giảm đau chậm hơn so với tiêm steroid. Đối với người già hoặc bệnh nhân bị mòn khớp gối nặng, tổn thương khớp hoặc biến dạng nặng thì không nên tiêm dịch khớp nhân tạo. Không nên dùng cho những bệnh nhân có tiền sử dị ứng với protein, nên thông báo cho bác sĩ trước khi điều trị.
- Tiêm huyết tương giàu tiểu cầu: Bác sĩ sẽ tiêm huyết tương (PRP) chứa tiểu cầu cô đặc của chính bệnh nhân, tách hồng cầu, bạch cầu bằng phương pháp ly tâm, thu được tiểu cầu với nồng độ đủ cao phù hợp để điều trị, sau đó tiêm trở lại vùng tổn thương để điều trị. Người bệnh có thể bị sưng, đau nhẹ sau khi tiêm.
Nhóm được đề xuất bao gồm:
- Bệnh nhân còn trẻ, đang ở giai đoạn đầu của bệnh, sụn chưa bị tổn thương nặng.
- Bệnh nhân bị hao mòn đầu gối ở mức độ nhẹ đến trung bình.
- Bệnh nhân đã dùng thuốc giảm đau, chống viêm, vật lý trị liệu mà không cải thiện.
- Bệnh nhân nhạy cảm với thuốc chống viêm không steroid (NSAID) như ibuprofen...
- Bệnh nhân không thể tiêm steroid.
Tác dụng phụ:
- Khớp gối có thể bị sưng, đau khoảng 3 ngày sau khi tiêm. Nếu cần tiêm nhiều lần, bệnh nhân cần tuân theo khuyến cáo của bác sĩ trong khoảng thời gian vài tuần hoặc vài tháng.
- Bệnh nhân nên tránh dùng thuốc hoặc tiêm steroid trong 2–3 tuần trước khi điều trị và ngừng tất cả các thuốc chống viêm không steroid (NSAID) trong ít nhất 1 tuần.
- Người bệnh không nên dùng các thuốc ảnh hưởng đến đông máu trong vòng 5 ngày trước khi điều trị.
Hạn chế điều trị:
Liệu pháp tiêm PRP không được khuyến cáo cho những bệnh nhân bị thoái hóa khớp gối nặng, viêm, nhiễm trùng cấp tính, bệnh về máu hoặc chảy máu bất thường, bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông máu, thiếu máu hoặc phụ nữ mang thai.
3. Những điều cần lưu ý khi tiêm thuốc điều trị thoái hóa khớp gối
Tiêm thuốc vào khớp gối không phù hợp với tất cả mọi người và chỉ những bác sĩ có kinh nghiệm, chuyên môn mới thực hiện các phương pháp điều trị này, vì nguy cơ nhiễm trùng, dị ứng thuốc liên quan. Ngoài ra, kết quả điều trị còn khác nhau ở mỗi bệnh nhân. Tùy thuộc vào đặc điểm cá nhân, bác sĩ có thể đề nghị các phương pháp điều trị khác.
Nhìn chung, tiêm thuốc vào khớp không nên được coi là phương pháp điều trị duy nhất cho bệnh thoái hóa khớp hoặc các tình trạng khớp khác. Tác dụng của nhiều loại thuốc này có xu hướng giảm dần theo thời gian và tác dụng lâu dài của thuốc, đặc biệt là corticoid, đối với khớp đang còn gây tranh cãi.
Khi sử dụng trong khớp, nên tiêm corticosteroid trong khoảng thời gian không dưới 3 tháng, không quá 2 đến 3 lần mỗi năm. Thời gian giảm đau có thể khác nhau tùy thuộc vào loại steroid được sử dụng.
Việc tiêm axit hyaluronic thường được thực hiện dưới dạng một loạt các mũi tiêm trong vòng 3 đến 5 tuần, được sử dụng chủ yếu trước khi phẫu thuật thay khớp gối ở những bệnh nhân không thể dung nạp corticoid, không thuyên giảm khi dùng thuốc uống.
Ngoài ra, người bệnh cần lưu ý:
- Kiểm soát cân nặng, tránh thừa cân sẽ đẩy nhanh tình trạng hao mòn khớp gối.
- Điều chỉnh hành vi để tránh sử dụng khớp gối quá mức, như nâng vật nặng, ngồi xổm, ngồi trên đầu gối trong thời gian dài.
- Tránh các động tác gắng sức hoặc tác động mạnh, không uốn cong đầu gối quá mức.
- Cẩn thận để bảo vệ khớp gối khỏi bị chấn thương. Nếu gặp chấn thương nên điều trị ngay lập tức.
- Thường xuyên tập luyện các cơ xung quanh khớp gối để tăng cường sức mạnh.
Phạm Hường (theo báo SK&ĐS)