
Không chủ quan lơ là khi bị chó cắn
Bệnh dại là căn bệnh vô cùng nguy
hiểm khi phát bệnh, người đã bị bệnh dại gần như tử vong 100%. Tuy nhiên, nhiều
người vẫn còn lơ là, chưa hiểu rõ về bệnh dại nên rất chủ quan hoặc điều trị
sai cách gây nguy hiểm đến mạng. Vậy hiểu như thế nào về bệnh dại là đúng?
1. Đặc điểm của bệnh:
- Bệnh dại là bệnh nhiễm vi rút cấp tính của hệ thống
thần kinh Trung ương từ động vật lây sang người bởi chất tiết, thông thường là
nước bọt bị nhiễm vi rút dại. Hầu hết các trường hợp phơi nhiễm với bệnh dại đều
qua vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại, đôi khi có thể bị nhiễm qua đường
tiếp xúc như hít phải khí dung hoặc ghép tổ chức mới bị nhiễm vi rút dại. Khi
đã lên cơn dại, kể cả động vật và người đều dẫn đến tử vong.
- Giai đoạn tiền triệu chứng: thường 1- 4 ngày, biểu
hiện cảm giác sợ hãi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, khó chịu, cảm giác tê và đau tại vết
thương nơi vi rút xâm nhập.
- Giai đoạn viêm não thường biểu hiện mất ngủ,
tăng cảm giác kích thích như: sợ ánh sáng, tiếng động và gió nhẹ. Ngoài ra, còn
có rối loạn hệ thần kinh thực vật như giãn đồng tử, tăng tiết nước bọt, vã mồ
hôi, hạ huyết áp, đôi khi có biểu hiện xuất tinh tự nhiên.
- Bệnh tiến triển theo hai thể: thể liệt kiểu hướng
thượng (hội chứng Landly) và thể cuồng.
- Bệnh thường kéo dài từ 2- 6 ngày, đôi khi lâu
hơn và chết do liệt cơ hô hấp.
-
Chẩn đoán bệnhdựa vào các triệu chứng
lâm sàng,đặc
biệt là các chứng sợ nước, sợ gió, sợ ánh sáng với các yếu tố dịch tễ học có
liên quan.
- Chẩn đoán
xác định: bằng xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (IFA) từ
mô não hoặc phân lập vi rút trên chuột hay trên hệ thống nuôi cấy tế bào. Có thể
dựa vào kết quả xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang của các mảnh cắt da đã làm
đông lạnh lấy từ dìa tóc ở gáy bệnh nhân hoặc chẩn đoán huyết thanh bằng phản ứng
trung hoà trên chuột hay trên nuôi cấy tế bào. Ngày nay, với kỹ thuật mới có thể
phát hiện được ARN của vi rút dại bằng phản ứng PCR hoặc phản ứng RT-PCR.
2. Tác nhân gây bệnh:
- Tác nhân gây bệnh là vi rút dại (Rhabdovirus) thuộc họ Rhabdoviridae, giống Lyssavirus.
- Có 2 chủng vi rút dại: vi rút dại đường phố là
vi rút dại tồn tại trên động vật bị bệnh và vi rút dại cố định (cố định thời
gian ủ bệnh trên thỏ). Chủng vi rút dại cố định được dùng để làm vắc xin dại lần
đầu tiên bởi L.Pasteur.
3. Phương thức lây truyền
- Bệnh dại được lây truyền qua nước
bọt của động vật mắc bệnh bài tiết ra ngoài và theo vết cắn, vết liếm, vết xước
trên da bị rách (hoặc qua màng niêm mạc còn nguyên vẹn) vào cơ thể, từ đó theo
dây thần kinh đến các hạch và thần kinh trung ương. Khi đến thần kinh trung
ương, vi rút sinh sản rất nhanh rồi lại theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt. Tại
thời điểm này, thần kinh chưa bị tổn thương đáng kể vì thế nhìn bề ngoài con vật
vẫn bình thường nhưng nước bọt đã có vi rút dại. Sau đó, vi rút dại hủy hoại dần
các tế bào thần kinh làm xuất hiện các triệu chứng lâm sàng điển hình của bệnh
dại.
- Sự lây truyền bệnh dại qua đường không khí đã được
chứng minh trong quần thể loài dơi sống ở hang động và ở môi trường phòng thí
nghiệm. Tuy vậy, cũng rất hiếm xảy ra. Sự lây truyền từ loài dơi hút máu bị nhiễm
vi rút dại đến súc vật nuôi trong nhà cũng gặp ở Châu Mỹ La Tinh. Những loài
dơi ăn sâu bọ bị nhiễm vi rút dại ở Mỹ rất hiếm lây truyền bệnh dại sang những
súc vật sống trên mặt đất, kể cả súc vật hoang dã hoặc súc vật nuôi trong nhà.

Tiêm phòng vắc xin là biện pháp tốt nhất để phòng bệnh
4. Xử lý khi bị động vật nghi dại cắn:
Những người bị chó, mèo cắn phải thực hiện nghiêm ngặt nội
dung sau:
Xử lý vết thương: Rửa
ngay thật kỹ vết cắn bằng nước xà phòng đặc, sau đó rửa bằng nước muối, bôi chất
sát trùng như cồn, cồn iốt để làm giảm lượng vi rút tại vết cắn. Chỉ khâu vết
thương trong trường hợp vết cắn đã quá 5 ngày. Tiêm vắc xin uốn ván và điều trị
chống nhiễm khuẩn nếu cần.
Bảo vệ bằng miễn dịch đặc hiệu: Dùng vắc xin dại
tế bào hoặc dùng cả vắc xin và huyết thanh kháng dại (HTKD) để điều trị dự
phòng tuỳ theo tình trạng súc vật, tình trạng vết cắn, tình hình bệnh dại ở súc
vật trong vùng. Không được lạm dụng trong sử dụng vắc xin và HTKD.
- Việc khám bệnh nhân bị súc vật cắn hoặc tiếp xúc
để có chỉ định điều trị dự phòng bằng vắc xin dại hoặc vắc xin + HTKD phải thực
hiện càng sớm càng tốt. Hiệu quả điều trị dự phòng phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: loại vắc xin, kỹ thuật tiêm, bảo quản sinh phẩm, đáp ứng miễn dịch của người
bệnh. Việc giám sát, kiểm soát để thực hiện các nội dung chuyên môn là hết sức
cần thiết.
- Vắc xin dại: Vắc xin dại tế bào là tốt nhất, đây
là vắc xin an toàn và hiệu lực bảo vệ cao. Với phác đồ tiêm thông thường . Phác đồ tiêm
bắp: 0,5ml x 5 liều cho một đợt điều trị dự phòng vào ngày
0, 3, 7, 14, 28. Trường hợp được chỉ định tiêm huyết thanh phải tiêm
càng sớm càng tốt trong vòng 7 ngày sau khi tiêm vắc xin mũi thứ 1.
Nguyễn Linh ( tổng hợp )